Thứ Năm, 5 tháng 9, 2013

Ly kỳ mệnh chiếc chuông đặc biệt chùa hơn 200 năm tuổi.

Cho là "bà tiên" hiện về mách bảo cho làng thỉnh chuông về thờ nên dân làng tạc tượng bà bằng gỗ, bên hông đeo cái giỏ có mấy con ốc, thờ trong chùa làng

Ly kỳ số phận chiếc chuông chùa hơn 200 năm tuổi

Trong thời kì này, do chiến tranh loạn lạc nên chiếc chuông cổ buộc phải "xiêu bạt" nhiều nơi trên đất Đà Sơn. Làng nào cũng muốn giành chuông về phía mình, nên cuối cùng đành phải đưa nhau lên báo quan. Vị quan đương thời cũng băn khoăn không biết nên xử cho làng nào được chuông, rút cục ông nghĩ ra một cách: "Trong khoảng thời gian tàn một cây hương, mỗi làng cử tám tráng đinh ra khiêng, nếu khiêng được thì mang về làng mình, còn không thì nhường cho làng khác khiêng".

Qua nhiều đời sau, vị trí chôn giấu chuông cũng bị lãng quên theo năm tháng. Lửa cháy rất lớn, vơ các pho tượng Phật, kinh thư quý đều bị thiêu rụi.

Vào năm Canh Tý (1771), do vua Quang Trung hạ chiếu thu vét đồng sắt để đúc súng và đúc tiền nên các thân hào và giáo đồ mộ đạo trong xã đã đem chuông chùa chôn giấu dưới khe nước (nay tục gọi là khe chùa) và ngôi chùa cũng bị mai một theo thời gian.

Chung cục, một vị cao niên trong làng hiến kế "dùng đồng bịt cái lỗ định âm ở phía trên chuông lại, thì âm thanh sẽ giảm bớt", như vậy vừa giữ được chuông cơ mà không trái lệnh vua. Tục truyền, trong một lần đi viếng chùa nước non, trời tối không đi tiếp được, nên đành dừng chân nghỉ dưới chân núi Bạch Mã. Họ đánh dây thừng bằng tre cật rất chắc, tráng đinh trong làng chỉ mới nhích chuông lên một tí là dây đứt; thử đi thử lại hai ba lần mà vẫn không tài nào nhấc nổi chuông.

Các cố lão trong làng tin rằng, Phật muốn ở lại nơi này, bèn phát quang cây cối, san đất lập một ngôi chùa ngay tại đó để người dân nhang khói. Chưa hết, đến những năm thực dân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng, chiếc chuông chùa Đà Sơn đấu được "thử vàng" lần thứ hai. Chuyện xưa kể rằng, có một bà già mò ốc ở Vũng Điền nơi giáp ranh giữa làng Khánh Sơn và Đà Sơn (nay là Phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, TP.

Chuông Việt thường tròn ngắn, có bốn núm ghi bốn mùa (Xuân - Hạ - Thu - Đông), với mục đích cứ một mùa là ba tháng thì xoay chuyển vị trí một lần để bảo vệ chuông không bị hư và âm thanh được đều) nhưng chuông này thon dài và có đến tám núm, mỗi núm có nhưng âm thanh vang vọng khác nhau. Đại hồng chung  Theo cụ ông Phan Văn Ích (93 tuổi, một trong ba người cao tuổi nhất làng Đà Sơn), việc dân làng Đà Sơn thỉnh được chuông về thờ bắt nguồn từ một vụ án vô cùng lạ kỳ.

Lần này, do nghi ngờ là địa điểm hội họp của Việt Minh nên thực dân Pháp cho gom hết rơm rạ hai làng Khánh Sơn, Đà Sơn chất quanh ngôi chùa uy nghi rồi châm lửa đốt. Lạ thay, khi các tráng đinh của làng ghé vai vào đòn khiêng, chuông từ từ được nhấc lên, chuông nhẹ nhàng theo người đi về làng.

Đến năm Cảnh Hưng thứ 16, tức vào tháng Chạp năm Ất Hợi (1755), bổn đạo toàn xã cùng với thập phương thiện tín đã chú nguyện đúc đại hồng chung nặng 450 cân (đơn vị đo lường cũ) với hình trạng cân đối hài hòa, hoa văn trang hoàng uyển chuyển biểu hiện trình độ kỹ thuật, mỹ thuật cao, tính đến nay chuông đã tồn tại ở đây được 258 năm.

Đến một ngọn đồi nhỏ, bỗng một ngọn to quét qua làm dây đứt, chuông rơi. Duy chỉ có chiếc chuông đồng còn trụ lại, được nhờ dân làng cất giấu trước đó.

Sau đó, mọi người mới sực nhớ tới bà già bắt ốc, bèn chia nhau đi tìm, nhưng tượng không ai biết bà ở đâu. Kỳ án. Năm 1970, cùng với đông đảo Phật tử nhiều nơi về đây và thành lập nên Niệm Phật đường mái tôn vách ván ngay trên nền chùa cũ.

Đà Nẵng), bỗng phát hiện một vật lạ ẩn dưới lớp bùn liền tri hô cho người dân quanh đó. Được tin báo, người dân hai làng đổ xô đi xem, hoá ra ẩn dưới lớp bùn là một quả. Cụ Ích cho biết:  "Do dân làng sợ thực dân Pháp trưng thu chiếc chuông để đúc súng đạn, nên quyết định đào một cái hố gần đó lót rơm lên, rồi huy động trai làng khuân chuông chôn xuống hố, khi Pháp đốt chùa lửa thiêu cháy hết, chỉ có chiếc chuông "trốn" dưới đất nên thoát được".

Rồi trận bão lịch sử năm 1989 đã làm sập ngôi chùa làng Đà Sơn thêm một lần nữa.

Trước tiên là việc bị vua Minh Mạng bắt… giảm bớt thanh âm. Đến năm 1972, Ban đại diện khuôn hội Đà Sơn và bổn đạo đã cung thỉnh Hòa thượng Thích Tôn Bảo (Ôn Vu Lan) về để chứng minh lễ trí thạch khai sơn, mở móng xây dựng chùa, nhưng chưa có thuận duyên nên không tiến hành được.

Để yên không làm gì thì làng tránh sao được tội kháng chỉ, nhưng bỏ chuông thì tiếc.

Làng Đà Sơn nghĩ rằng, đây là bảo bối trời ban cho làng, nên thiết lễ giữa thinh không, nguyện nếu thỉnh được chuông về sẽ lập chùa thờ cúng chu đáo. Bị dìm xuống bùn sâu, may mắn được với dân làng Đà Sơn tìm về tưởng là im, nào ngờ số kiếp "long đong" vẫn chưa buông tha chiếc chuông cổ này.

Nửa đêm vua bị tiếng chuông ngân vang làm tỉnh, bèn cho lính tầm nã kẻ nào "bạo gan" dám kinh động xa giá. Theo Đại Đức Thích Pháp Đạo (trụ trì chùa Đà Sơn), chiếc chuông lấy hình mẫu từ tích "cá kình cắn chân con bồ lao".

Theo lẽ thường tình, vật trôi từ trên xuống, làng Khánh Sơn ở phía trên nên được quyền khiêng trước. " Khắc trên đại hồng chung lưu tại chùa hiện nay, thì Phật giáo đã nảy sinh từ Đà Sơn vào đầu thời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786) với ngôi chùa mang tên Tây Linh Tự. Chỉ đến năm 1995, chùa Đà Sơn được xây dựng lại khang trang thì chiếc Đại hồng chung cổ nhất Đà Nẵng mới chính thức trở về "thường trú" luôn tại chùa Đà Sơn.

Sự thật về lai lịch chiếc chuông cổ  Theo Đại Đức Thích Pháp Đạo, trụ trì chùa Đà Sơn, căn cứ vào dòng chữ "Cảnh Hưng Thập lục niên, Quảng Nam xứ, Thăng Hoa phủ, Lễ Dương huyện, Đà Sơn xã, Ất Hợi niên tàn tựu Tây Linh Tự trú phụng.

Phương Hưng. Quan quân theo tiếng chuông tìm đến chùa Đà Sơn, ra lệnh cho dân làng phải làm giảm bớt âm vang của chuông để khỏi kinh động đến giấc ngủ của Thiên Tử. Mãi đến năm 1960, chùa mới được xây dựng lại theo kiểu chùa làng do lòng tín sùng đạo Phật của những dòng tộc có truyền thống và những tín đồ Phật giáo địa phương, chuông mới được người dân đào lên nối phụng dưỡng.

Trên 250 năm, chuông chùa Đà Sơn đã từng gióng lên bao hồi chuông cảnh tỉnh nhân tâm, xa lìa đường mê quay về nẻo giác, đã trở nên một di sản văn hóa được thành thị xác nhận và bảo tàng.

Nhấp ngụm chè xanh, cụ Ích trở thành hồ hởi:  "Tui nghe ông nội kể, hôm kéo chuông lên khỏi khe nước, người dân hai làng như mở hội, khua chiêng, khua trống vang động cả một góc trời".

Cá kình cắn vào chân con bồ lao, bồ lao đau quá kêu oang oang (giống âm thanh của tiếng chuông), do đó có câu "Kình ngư nhất kích, bồ lao đại hống". Cùng với sự ra đi của các bậc tiền bối hữu công, số người biết được chuyện này thưa dần rồi mất hẳn, dẫn đến việc phát sinh nên câu chuyện huyền thoại về chiếc Đại hồng chung cùng ngôi chùa Đà Sơn mới được xây dựng sau này.

Nhiều người lầm tưởng quai chuông chùa Đà Sơn là hình con rồng nhưng kỳ thực quai chuông được đúc theo hình con bồ lao.

Trụ trì Đà Sơn giới thiệu về chiếc chuông 258 năm tuổi   "Bảy nổi ba chìm với non sông"   tuyệt bút của nghệ thuật đúc và chạm khắc  Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng, nghệ thuật đúc chuông có sự giao thoa văn hóa Việt - Chăm.

Con bồ lao ở trên cạn, xuống nước bắt con cá kình để ăn.