Thứ Sáu, 13 tháng 12, 2013

Giá nhân lực giảm - toàn cầu hóa không phải còn rất nóng là thủ phạm.

Chúng ta hiện đang phải nghe hàng ngày thiếu gì những ý kiến về tình trạng suy thoái dài hạn của lương bổng cần lao

Giá nhân công giảm - toàn cầu hóa không phải là thủ phạm

Đã có những nghiên cứu rà soát lại những lập luận vẫn thường kết liên toàn cầu hóa với các thiệt hại.

Thứ hai. Liệu có thể quá trình toàn cầu hóa đã làm giảm khả năng mà cả của người cần lao và thành thử tạo sức ép giảm tiền công cần lao? Điều này đích thực đáng ngờ. Tiến bộ công nghệ liên tục thúc đẩy các tổ chức kinh tế trong việc sử dụng cần lao thiếu kỹ năng. Jagdish Bhagwati đã tổng kết một số lập luận chỉ ra duyên do bản tính nằm ở tiến bộ công nghệ.

Tất những nghiên cứu thực nghiệm. Tình trạng mất đoàn kết đã diễn ra trong hơn hai thập kỷ qua toàn cầu hóa vừa qua mà không cho thấy có mặt tác nhân xúc tiến có ý nghĩa nào suốt hai thập kỷ qua và được quy cho những điều khoản không có lợi cho nghiệp đoàn của điều luật già cỗi hơn nửa thế kỷ Taft-Hartley [ii] làm tê liệt khả năng yêu sách.

Là một luật của Mỹ có khuôn khổ toàn liên bang giới hạn ngặt nghèo các hoạt động và quyền lực của các nghiệp đoàn lao động. Giá nhân công giảm - toàn cầu hóa không phải là thủ phạm 4 5 24 Giá nhân lực giảm - toàn cầu hóa không phải là thủ phạm Trong bài viếtđăng trên Finance Time. Phim Thời đương đại. Thứ hai.

Tác giả của cuốn sách cãi cho toàn cầu hóa. Điều luật này được Thượng nghị sĩ Robert Taft và Hạ nghị sĩ Fred A.

Điều luậtnày vẫn được Quốc hội phê chuẩn và bổ sung vào Luật Quan hệ cần lao Quốc gia (NLRA). Rõ ràng là chẳng thể xem xét vấn đề một cách phiến diện. Jagdish Bhagwati đã tổng kết một số lập luận chỉ ra căn do bản tính nằm ở tiến bộ công nghệ. Thứ hai. Tác giả của cuốn sách gượng nhẹ cho toàn cầu hóa.

Liệu có thể quá trình toàn cầu hóa đã làm giảm khả năng mặc cả của người cần lao và nên tạo sức ép giảm tiền công cần lao? Điều này đích thực đáng ngờ. Sức ép về công ăn việc làm của thế hệ cần lao đang bị thay thế. Vậy tại sao trong các thống kê về lương cần lao trong gần suốt 2 thập kỷ qua cho thấy những hiệu quả rõ rệt.

Tổng thống Harry S. Những lý lẽ của những ủng hộ viên của toàn cầu hóa vững vàng hơn là họ tưởng. Rõ ràng là chẳng thể coi xét vấn đề một cách phiến diện. Không có gì để làm với toàn cầu hóa. Đổi thay công nghệ đang mở rộng chóng vánh trên cả hệ thống.

Ngày nay có những dây chuyền lắp ráp thậm chí không có cả công nhân.

Truman từng diễn tả điều luật này như một luật về những nô lệ và coi nó "chống lại những nguyên tắc quan yếu của một tầng lớp dân chủ. Nhóm nghiên cứu việc làm của Viện Chính sách Kinh tế và gần như vớ thành viên Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử Quốc hội mới đây đều tin rằng toàn cầu hóa đã gây ra những thiệt hại kinh tế cho thị trường việc làm và xã hội trung lưu.

Thứ nhất. Trong ngắn hạn. Hãy nhớ lại anh công nhân đã cáu tiết thế nào với dây chuyển lắp ráp. Với những kỹ sư có trình độ cao chịu nghĩa vụ kiểm soát.

Một ví dụ thường được dẫn ra từ phimcủa Charlie Chaplin. Thay đổi công nghệ đang mở mang nhanh chóng trên cả hệ thống. Tình trạng mất đoàn kết đã diễn ra trong hơn hai thập kỷ qua toàn cầu hóa vừa qua mà không cho thấy có mặt tác nhân thúc đẩy có ý nghĩa nào suốt hai thập kỷ qua và được quy cho những điều khoản không có lợi cho nghiệp đoàn của điều luật già cỗi hơn nửa thế kỷ Taft-Hartley [ii] làm bại liệt khả năng yêu sách.

Kết quả thật nghiệm của chính Jagdish Bhagwati cũng đưa đến kết luận rằng tác động của thương nghiệp với các nước nghèo có nhẽ thậm chí đã kiểm soát sức ép giảm giá nhân công nhờ vào tốc độ đổi thay mau lẹ của những công nghệ thay thế cho các loại lao động giản đơn. Tiến bộ công nghệ liên tiếp xúc tiến các tổ chức kinh tế trong việc sử dụng lao động thiếu kỹ năng. Các kết quả kinh tế lượng của các nhà kinh tế lao động hàng đầu khi nghiên cứu các dòng di trú của các cần lao thiếu kỹ năng vào Mỹ cũng cho các kết quả tương tự.

Thứ hai. Jagdish Bhagwati là giáo sư của trường đại học Columbia. Trên thực tế. Có nhiều luận chứng dựa trên thực nghiệm và những chứng cớ cho vấn đề này. Trừ những trường hợp xuất hiện những khó khăn về mặt vĩ mô. Nhưng chúng ta cũng biết qua kinh nghiệp từ hai thập kỷ qua rằng chúng ta thường có đường cong phát triển dưới dạng chữ J ở đây. " Tuy nhiên bất chấp sự phủ quyết của Truman. Nó lại đã rơi vào một chu kỳ thay đổi công nghệ mới.

Kết quả thực nghiệm của chính Jagdish Bhagwati cũng đưa đến kết luận rằng tác động của thương mại với các nước nghèo có nhẽ thậm chí đã kiểm soát áp lực giảm giá nhân lực nhờ vào tốc độ thay đổi mau lẹ của những công nghệ thay thế cho các loại lao động giản đơn. Điều luậtnày vẫn được Quốc hội chuẩn y và bổ sung vào Luật Quan hệ cần lao Quốc gia (NLRA).

Thành viên cao cấp của Ủy ban Đối ngoại Mỹ. Lập luận này không xác đáng khi người dùng cần lao và người lao động đều ở trong một thị trường cạnh tranh và người lao động được trả tiền thôi việc. Jagdish Bhagwati là giáo sư của trường đại học Columbia.

Liệu dòng vốn chảy ra ngoài qua các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có làm giảm lượng vốn có thể dùng để hỗ trợ việc làm cho những lao động thiếu kỹ năng trong nước và nên góp phần làm giảm giá nhân công? Nhìn vào dữ liệu. Thứ nhất. Bao gồm những nghiên cứu được thực hiện bởi những nhà kinh tế học hàng đầu hiện nay (như Paul Krugman ở đại học Princeton và Robert Feenstra của đại học California).

Bao gồm những nghiên cứu được thực hành bởi những nhà kinh tế học hàng đầu hiện giờ (như Paul Krugman ở đại học Princeton và Robert Feenstra của đại học California).

Lou Dobbs [i] của CNN. [I]Lou Dobbs là nhà phân tách và là người đảm nhiệm mục thị trường tài chính của kênh truyền hình CNN. Chuyển động máy móc và rốt cục thao tác vặn ốc tranh hoàn toàn anh ta. Điều này cũng đáng ngờ. Khi việc tăng năng suất được đảm bảo. Có một thực tiễn là hơn 10% cần lao trong khu vực tư nhân của Mỹ là thành viên của nghiệp đoàn.

Thành ra những lớp cần lao đó lại rơi vào đoạn giảm của một đường cong chữ J khác. Ngày nay có những dây chuyền lắp ráp thậm chí không có cả công nhân. Liên tiếp và không ngừng nghỉ. Trong ngắn hạn. Các kết quả kinh tế lượng của các nhà kinh tế cần lao hàng đầu khi nghiên cứu các dòng thiên cư của các lao động thiếu kỹ năng vào Mỹ cũng cho các kết quả na ná.

Chỉ ra rằng những tác động không mong muốn của thương mại lên tiền lương lao động là rất không đáng kể. Những người ủng hộ toàn cầu hóa. Liên tiếp và không ngừng nghỉ. Điều này một cách thiên nhiên tạo ra. Nó sẽ đẩy mức lương cần lao cao lên. Trước khi thị trường lao động đuổi kịp gia đoạn tăng lên trong đường cong chữ J. Áp lực lên lương hướng đang trở thành tàn ác.

Hệ thống được máy tính quản lý trong một buồng kính phía trên. Nếu nói rằng việc thúc đấy toàn cầu hóa đã làm giảm kết liên giữa các thành viên. Thứ nhất. Thủ phạm không phải là toàn cầu hóa mà chính là những đổi thay trong công nghệ đã hà tằn hà tiện sức lao động và đặt sức ép lên tiến lương của những lao động không đòi hỏi kỹ năng. Ngoại trừ những trường hợp xuất hiện những khó khăn về mặt vĩ mô.

Không có gì để làm với toàn cầu hóa. Nhưng chúng ta cũng biết qua kinh nghiệp từ hai thập kỷ qua rằng chúng ta thường có đường cong phát triển dưới dạng chữ J ở đây.

Tất cả đều thống nhất quan điểm muốn dựng nên những rào cản - thậm chí đóng hẳn cửa - quan hệ thương mại với những nước nghèo và trong một số trường hợp là với lực lượng cần lao thiếu kỹ năng thiên cư từ những nước này.

Tôi ngờ rằng câu trả lời nằm trong cường độ thay thế của cần lao ít kỹ năng do sự thay đổi từ nền tảng với công nghệ thông báo và trên thực tiễn quá trình này bây giờ vẫn đang tiếp chuyện - không giống như sự thay đổi gián đoạn trong dĩ vãng như với kỹ nghệ đầu máy hơi nước.

Thành viên cao cấp của Ủy ban Đối ngoại Mỹ. Hartley vận động đưa vào và ủng hộ nhiệt tình. Có nhiều luận chứng dựa trên thực nghiệm và những chứng cứ cho vấn đề này. Lou Dobbs [i] của CNN. Thứ nhất. Tuy nhiên lại tỏ ra đuối lý: họ thường lập luận vòng vèo rồi dìm những quan điểm chỉ trích với toàn cầu hóa - mặt khác lại cho rằng phải chấp nhận những tác động không mong muốn đó của toàn cầu hóa song sẽ thu được những ích lợi để đấu tranh với những khó khăn đó bằng những cách khác.

Nước Mỹ đã nhận dòng đầu tư phê duyệt cổ phiếu cũng nhiều như nó đã mẩt ra ngoài trong hai thập kỷ qua. Những lý lẽ của những ủng hộ viên của toàn cầu hóa vững hơn là họ tưởng. Thủ phạm không phải là toàn cầu hóa mà chính là những thay đổi trong công nghệ đã kiệm ước sức lao động và đặt sức ép lên tiến lương của những cần lao không đòi hỏi kỹ năng.

" Tuy nhiên bất chấp sự phủ quyết của Truman. Là một luật của Mỹ có khuôn khổ toàn liên bang giới hạn ngặt nghèo các hoạt động và quyền lực của các nghiệp đoàn cần lao. Khi việc tăng năng suất được bảo đảm. Hãy nhớ lại anh công nhân đã cáu sườn thế nào với dây chuyển lắp ráp. Điều này cũng đáng ngờ. [I]Lou Dobbs là nhà phân tích và là người đảm đương mục thị trường tài chính của kênh truyền hình CNN.

Những đổi thay công nghệ này. [Ii] Điều luật Taft-Hartley là tên gọi thông dụng của Điều luật về quan hệ quản lý-lao động. Nó sẽ đẩy mức lương lao động cao lên. Phim Thời đương đại. Điều luật này được Thượng nghị viên Robert Taft và Hạ nghị viên Fred A.

Nhiều người tin rằng sinh kế trong ngày mai của xã hội trung lưu đang bị đe dọa. Lập luận này không xác đáng khi người dùng cần lao và người lao động đều ở trong một thị trường cạnh tranh và người cần lao được trả tiền thôi việc. Nếu nói rằng việc thúc đấy toàn cầu hóa đã làm giảm liên kết giữa các thành viên.

Đã có những nghiên cứu rà lại những lập luận vẫn thường kết liên toàn cầu hóa với các thiệt hại. Một thí dụ thường được dẫn ra từ phimcủa Charlie Chaplin. Nó lại đã rơi vào một chu kỳ thay đổi công nghệ mới. Do vậy những lớp lao động đó lại rơi vào đoạn giảm của một đường cong chữ J khác. Hartley vận động đưa vào và ủng hộ nồng hậu. Với những kỹ sư có trình độ cao chịu bổn phận kiểm soát.

Tổng thống Harry S. Sức ép về công ăn việc làm của thế hệ lao động đang bị thay thế. Chuyển động máy móc và cuối cùng thao tác vặn ốc giật hoàn toàn anh ta. Trên thực tiễn. Liệu dòng vốn chảy ra ngoài qua các khoản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có làm giảm lượng vốn có thể dùng để hỗ trợ việc làm cho những cần lao thiếu kỹ năng trong nước và nên góp phần làm giảm giá nhân công? Nhìn vào dữ liệu.

Áp lực lên lương bổng đang trở thành tàn nhẫn. Chỉ ra rằng những tác động không mong muốn của thương nghiệp lên lương hướng lao động là rất không đáng kể. Nhiều người tin rằng sinh kế trong tương lai của từng lớp trung lưu đang bị đe dọa. Có một thực tế là hơn 10% lao động trong khu vực tư nhân của Mỹ là thành viên của nghiệp đoàn. Truman từng biểu lộ điều luật này như một luật về những nô lệ và coi nó "chống lại những nguyên tắc quan trọng của một xã hội dân chủ.

Chúng ta hiện đang phải nghe hàng ngày vô kể những quan điểm về tình trạng suy thoái dài hạn của lương lậu lao động. Trước khi thị trường cần lao đuổi kịp gia đoạn tăng lên trong đường cong chữ J. Duy trì trong những giai đoạn lâu hơn kinh nghiệm trước đó với những đổi thay về công nghệ đã giảm bớt các lao động không cần kỹ năng.

Nên trong vấn đề này. Duy trì trong những thời đoạn lâu hơn kinh nghiệm trước đó với những đổi thay về công nghệ đã giảm bớt các cần lao không cần kỹ năng. [Ii] Điều luật Taft-Hartley là tên gọi thông dụng của Điều luật về quan hệ quản lý-cần lao.

Tất đều hợp nhất ý kiến muốn dựng nên những rào cản - thậm chí đóng hẳn cửa - quan hệ thương nghiệp với những nước nghèo và trong một số trường hợp là với lực lượng lao động thiếu kỹ năng di cư từ những nước này.

Năm 1947. Vậy tại sao trong các thống kê về lương cần lao trong gần suốt 2 thập kỷ qua cho thấy những hiệu quả rõ rệt. Nghiên cứu gần đây nhất của George Borjas và Larry Katz ở đại học Havard cũng chỉ ra tác động rất mờ nhạt lên lương bổng cần lao. Hệ thống được máy tính quản lý trong một buồng kính phía trên.

Tôi ngờ rằng câu trả lời nằm trong cường độ thay thế của lao động ít kỹ năng do sự đổi thay từ nền móng với công nghệ thông tin và trên thực tiễn quá trình này hiện vẫn đang tiếp - không giống như sự thay đổi đứt quãng trong quá vãng như với kỹ nghệ đầu máy hơi nước.

Nhóm nghiên cứu việc làm của Viện Chính sách Kinh tế và gần như vơ thành viên Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử Quốc hội mới đây đều tin rằng toàn cầu hóa đã gây ra những thiệt hại kinh tế cho thị trường việc làm và từng lớp trung lưu.

Những người ủng hộ toàn cầu hóa. Nghiên cứu gần đây nhất của George Borjas và Larry Katz ở đại học Havard cũng chỉ ra tác động rất mờ nhạt lên lương cần lao.

Nguồn Dân trí Trong bài viếtđăng trên Finance Time.

Điều này một cách tự nhiên tạo ra. Nước Mỹ đã nhận dòng đầu tư ưng chuẩn cổ phiếu cũng nhiều như nó đã mẩt ra ngoài trong hai thập kỷ qua. Bởi vậy trong vấn đề này. Năm 1947. Tất cả những nghiên cứu thực nghiệm. Tuy nhiên lại tỏ ra đuối lý: họ thường lập luận quanh co rồi thừa nhận những ý kiến chỉ trích với toàn cầu hóa - mặt khác lại cho rằng phải hài lòng những tác động không mong muốn đó của toàn cầu hóa song sẽ thu được những ích lợi để tranh đấu với những khó khăn đó bằng những cách khác.

Những đổi thay công nghệ này.